제주의 부드러운 산언덕 무덤가에 둘러진 나즈막한 산담과 무덤 앞에 서 있는 천연덕스러운 표정의 동자석은 화산섬 제주의 고유한 풍토와 신앙이 만들어 낸 상징물들이다. 사람의 솜씨를 뽐내지 않는 겸손하고 소박한 이 조형물들을 통해 우리는 제주 사람들이 자연과 어우러져 살아온 역사, 그리고 삶과 죽음에 대한 생각을 엿볼 수 있다.
Bức tường đá thấp bao quanh và tượng đồng tử với vẻ mặt ngây thơ đứng trước các ngôi mộ nằm trên những quả đồi chính là hình ảnh tượng trưng của Jeju, do thiên nhiên và tín ngưỡng của vùng đất này tạo nên. Thông qua những tác phẩm tạo hình mộc mạc, không cầu kì, không cần đến bàn tay khéo léo của con người này chúng ta có thể thấy được lịch sử hòa hợp giữa thiên nhiên và con người Jeju, cũng như hiểu hơn tư tưởng về sự sống và cái chết của họ.
구좌읍 당오름에 산담군이 펼쳐져 있다. 무덤을 사방에서 둘러싼 돌담인 산담은 내륙에서는 볼 수 없는 것으로 방목된 말과 소들이 무덤을 훼손하거나 불길이 번지는 것을 막아 준다. 산담의 상당수는 중산간 지대나 오름에서 볼 수 있지만, 밭 한가운데 자리 잡은 산담도 있다. Những ngôi mộ hình chóp Dang Oreum nằm ở Gujwa-eup, được bao quanh bởi các tường rào đá, chính là đặc trưng của đảo Jeju. Hàng rào đá quanh mộ, tức sandam, bảo vệ ngôi mộ khỏi hỏa hoạn và gia súc xâm phạm.
한반도에 속해 있는 약 3,300 개의 섬 중에서 가장 큰 제주는 하나의 거대한 산이라고 볼 수 있다. 섬 전체가 해발 1,950m의 한라산이 완만한 곡선을 그리며 길게 누운 형상을 하고 있기 때문이다. 약 170만 년 전 이 한라산의 폭발로 만들어진 화산섬 제주의 지표와 지하는 용암 분출의 흔적으로 가득하다. 바로 제주의 독특한 경관을 상징하는 현무암이다. 어디를 둘러 보나 검은색에 구멍이 숭숭 뚫린 돌이 널려 있는 제주도를 돌과 바람과 여자의 섬이라는 의미에서 ‘삼다도’라 부르기도 한다.
Jeju là đảo lớn nhất trong số 3.300 hòn đảo lớn nhỏ thuộc bán đảo Korea. Có thể ví Jeju như một ngọn núi khổng lồ, vì núi Hallasan với độ cao 1.950 m so với mặt nước biển đã vẽ nên những đường cong thoai thoải và trải dài trên toàn diện tích đảo. Khoảng 170 vạn năm trước, Jeju được hình thành từ sự phun trào của núi lửa Hallasan, do đó trên bề mặt và trong lòng đất của đảo đầy ắp vết tích của sự phun trào dung nham này. Vết tích đó chính là đá bazan, biểu tượng của cảnh quan độc đáo ở Jeju. Khắp nơi có sự hiện diện của đá bazan màu đen với nhiều lỗ, và cũng vì trên đảo nhiều đá, gió và phụ nữ nên Jeju còn được gọi là “Tam đa đảo”.
인간은 주어진 환경에 적응하고 활용하면서 살아가기 마련이다. 제주 사람들 역시 거부할 수 없는 자연 조건인 바닷바람을 막기 위해 또 다른 자연 조건인 돌을 사용했다. 방풍과 방파를 목적으로 해식애에서 떨어져 나왔거나 파식대에서 구르는 돌을 모아 해안이나 밭두렁을 따라 돌담을 쌓았고, 무덤을 보호하기 위해 산담을 쌓았으며, 동자석을 깎아 세워 사자(死者)의 곁을 지키게 했다.
Con người luôn thích ứng và tận dụng môi trường sống. Người dân Jeju đã sử dụng đá để ngăn gió biển, vốn là một điều kiện tự nhiên khác mà họ không thể tránh được. Dân đảo gom đá rơi xuống từ vách núi hoặc các bậc thềm sóng vỗ rồi xây tường đá dọc theo bờ biển hay bờ ruộng để chắn gió và chắn sóng, xây tường rào đá quanh mộ để bảo vệ mộ, tạc thành tượng đồng tử để canh giữ mộ của người đã khuất.
제주를 상징하는 돌담들은 여러 세대를 거치며 쌓아 내려온 노동의 축적이다. 아버지가 큰 돌을 적당한 크기로 마름질하면 아들이 그 돌무더기를 날라다 담을 쌓았고, 어머니는 밭을 일굴 때마다 수시로 호미에 걸리는 잔돌로 돌담의 구멍을 메웠다. 이 단순하고 고된 일이 얼마나 오래된 노동의 반복이었는지 정확하게 알 길은 없다. 그러나 하늘에서 이 섬을 내려다 보면 크고 작은 검은 돌담이 자유분방한 선을 그리며 섬 전체를 휘감아 안고 있는 것이 마치 거대한 미술 작품을 보는 듯하다. 대지를 캔버스 삼은 작자 미상의 이 신비로운 ‘예술 작품’들이 특별한 것은 사람의 손길보다는 천연의 아름다움으로 가득하다는 사실이다.
Những bức tường rào đá, hình ảnh tượng trưng cho đảo Jeju, chính là kết quả tích lũy của quá trình lao động qua nhiều thế hệ. Người cha xẻ tảng đá to ra theo kích cỡ vừa phải, con trai thì chất những viên đá do người cha tạo ra để xây thành tường rào, còn mẹ thì gom những hòn đá nhỏ đào được mỗi khi cày ruộng để lấp khoảng trống trên tường. Khó có thể biết chính xác công việc tuy đơn giản nhưng khá nặng nhọc này phải lặp đi lặp lại trong bao lâu. Nhưng khi quan sát đảo Jeju từ trên cao thì những tường đá màu đen lớn nhỏ tạo nên nhiều đường cong theo phong cách tự do, vây quanh toàn bộ đảo, trông chẳng khác gì một tác phẩm mỹ thuật vĩ đại. Các tác giả vô danh đã xem mặt đất như khung vải để vẽ nên “tác phẩm mỹ thuật” kỳ bí, và điểm đặc biệt của tác phẩm này chính là vẻ đẹp thiên nhiên, chứ không phải vẻ đẹp do con người tạo tác.
제주의 돌담들은 하나같이 정해진 규칙이나 양식이 없이 제멋대로 구불거리며 대지를 휘감고 있다. 그리고 그 돌담들이 만들어 낸 수많은 선들은 마치 바람에 쓸려 저절로 자리를 잡은 것처럼 자연스럽다. 그래서 누군가는 “제주의 땅과 돌담은 원래부터 한 몸이었다”고 말했는지 모른다.
Tường rào đá ở Jeju không có quy tắc hay kiểu mẫu nhất định mà uốn lượn tự do theo sở thích của người làm ra và chạy quanh bề mặt đảo. Vô số đường cong từ các bức tường rào đá này mềm mại tự nhiên như thể đang cuốn theo chiều gió. Cũng vì điều này mà có ai đó từng ví von: “ Mặt đất và tường rào đá Jeju vốn dĩ chỉ là một mà thôi.”
제주 사람들은 돌로 울타리를 세운 집에서 태어나 평생을 살다가 죽으면 다시 돌담이 둘러쳐진 무덤에 누웠다. 그렇게 돌은 인간의 삶과 죽음 모두에 깊숙이 관여해 왔다. Người dân trên đảo Jeju được sinh ra và sống trọn đời trong những ngôi nhà có tường rào đá, khi họ chết đi cũng nằm trong những ngôi mộ được bao quanh bằng tường đá. Đá có mối quan hệ vô cùng mật thiết với sự sống và cái chết của người dân nơi đây như thế đấy.
무덤을 지키는 동자석은 남녀 어린아이의 모습을 하고 있는 석상이다. 제주의 동자석은 성긴 현무암이 주는 질감과 단순하면서도 영적인 분위기를 살린 표현 방법이 눈길을 끈다. Tượng đồng tử bằng đá tạc theo hình dáng của trẻ con, đứng phía trước để canh giữ ngôi mộ. Tượng rất mộc mạc được làm từ đá bazan nhiều lỗ, đặc điểm chung là có đường nét thô và toát lên vẻ thần bí.
산담은 크게 한 줄로 쌓는 외담과 겹으로 쌓는 겹담으로 나뉘는데, 산담의 크기와 형태는 집안의 재력을 가늠하는 징표가 되기도 한다. Tường đá xung quanh mộ gồm loại một lớp và loại nhiều lớp. Độ lớn và hình dáng của tường khác nhau tùy thuộc vào gia cảnh của chủ nhân ngôi mộ.
사자를 위한 돌담 - Tường rào đá dành cho người đã khuất
온 섬에 뒹구는 제주의 돌은 신의 선물일까, 아니면 재앙일까? 농부의 일손을 더디게 할 때는 잠시 재앙이 되지만, 돌이 이처럼 흔치 않았다면 사람과 짐승의 집은 물론 죽은 자의 영혼이 쉴 무덤 또한 제대로 지을 수 없었을 것이다. 제주 사람들은 돌로 울타리를 세운 집에서 태어나 평생을 살다가 죽으면 다시 돌담이 둘러쳐진 무덤에 누웠다. 그렇게 돌은 인간의 삶과 죽음 모두에 깊숙이 관여해 왔다.
Những hòn đá của Jeju lăn lóc khắp đảo là món quà từ thần thánh hay tai ương của vùng đất này? Khi chúng khiến cho công việc của người nông dân chậm lại thì có thể trở thành tai ương, nhưng nếu như không có nhiều đá như vậy thì không thể xây dựng được nhà cửa và chuồng gia súc, cũng như mộ phần để linh hồn người chết yên nghỉ. Người dân trên đảo Jeju được sinh ra và sống trọn đời trong những ngôi nhà có tường rào đá, khi họ chết đi cũng nằm trong những ngôi mộ được bao quanh bằng tường đá. Đá có mối quan hệ vô cùng mật thiết với sự sống và cái chết của người dân nơi đây như thế đấy.
제주의 곳곳에서 볼 수 있는 여러 형태의 돌담 가운데 무덤을 둘러싼 돌담을 ‘산담’이라 부른다. 산담은 여러 용도의 돌담 중 유독 신성시되는 것으로, 무덤을 보호하기 위한 울타리이자 영혼의 집임을 표시하는 경계선이기도 하다. 산담은 한 줄로 쌓은 외담과 겹줄로 쌓은 겹담으로 나뉘는데, 외담은 다시 모양에 따라 원형 산담과 도토리 모양의 산담, 사각형 산담으로 구분된다. 그리고 무덤 뒷부분을 좁게 조성한 사다리꼴의 겹담도 있다.
Trong số những hàng rào đá được xây theo nhiều hình thức khác nhau thì hàng rào đá bao quanh mộ được gọi là “sandam” [“san” nghĩa là “núi” và “dam” nghĩa là “tường”]. Tường rào đá ở Jeju được sử dụng với nhiều mục đích, tuy nhiên sandam là tường rào đá duy nhất được tôn thờ, chúng vừa là hàng rào bảo vệ ngôi mộ, vừa là đường ranh giới cho ngôi nhà của linh hồn. Sandam được chia thành loại một lớp mỏng và loại nhiều lớp dày, riêng loại một lớp thì tùy theo hình dáng sẽ được phân thành sandam hình tròn, hình hạt dẻ, hình tứ giác. Loại sandam nhiều lớp theo dạng bậc thang thường khiến cho phần sau của ngôi mộ trở nên hẹp hơn.
산담에는 영혼이 다니는 신문(神門)인 ‘올레’를 둔다. 산담 좌측 혹은 우측에 약 40~50cm 정도를 터놓는 것을 말한다. 그리고 그 터진 공간 좌우측 담장 위에 긴 돌 1~3개를 올려놓아 마소나 사람의 출입을 통제한다. 올레의 방향이 좌우로 나뉘는 기준은 무덤 주인의 성별이다. 남자의 무덤은 망자의 시점으로 볼 때 좌측에 만들고, 여자는 우측에 만들며, 합묘인 경우 남자를 중심으로 좌측에 만든다. 간혹 산담 앞쪽에 만든 사례도 있으며, 쌍묘에서는 특별히 좌우 양쪽에 올레를 내는 경우도 있다.
Sandam có một cổng nhỏ gọi là “olle” để các linh hồn đi lại, còn được gọi là “thần môn”. Cổng nhỏ này rộng khoảng 40-50 cm ở bên trái hoặc bên phải sandam. Người ta sẽ gác ngang cổng một đến ba thanh đá dài từ trái sang phải để ngăn không cho bò ngựa hay con người ra vào. Hướng đặt olle tùy thuộc vào giới tính của chủ nhân ngôi mộ. Nếu là mộ của đàn ông, olle sẽ nằm bên trái tính theo góc nhìn của người chết còn mộ của phụ nữ thì olle nằm bên phải, trường hợp là mộ phần chung thì sẽ lấy đàn ông làm trung tâm mà đặt olle ở bên trái. Thỉnh thoảng cũng có trường hợp olle được mở ở trước mộ và đặc biệt, nếu là mộ đôi thì olle sẽ được mở cả hai hướng trái phải.
산담은 원래 밭머리가 아닌 들판에 있었고, 바로 그 때문에 화재로 인한 소실, 또는 마소 등 짐승의 침입으로부터 무덤을 보호하기 위해 필요했다. 하지만 들판이었던 땅이 점차 경작지로 변하면서 밭머리에 위치하게 되었다. 물론 친인척에 의한 관리의 편의성을 도모하기 위해 밭 한쪽에 무덤을 만들고 산담을 조성했다고 볼 수도 있다. 하지만 아무리 인가 근처에 있더라도 산담의 돌은 어느 누구도 함부로 손댈 수 없는 금기의 대상이었다. 타당한 이유나 허락 없이 산담을 함부로 넘어서도 안 되었다. 그러나 예외는 있었다. 먼 길을 가는 나그네가 길을 잃었을 때에 한해서는 산담 안에 들어가 잠을 자면 무덤 속 영혼이 보호해 준다고 믿었다.
Trước đây, sandam thường được đặt giữa cánh đồng chứ không phải đầu thửa ruộng, do đó cần phải được bảo vệ, tránh bị thiêu cháy, hay bị gia súc như bò, ngựa xâm phạm. Nhưng đất giữa cánh đồng dần dà chuyển thành đất canh tác nông nghiệp nên sandam được đưa về đầu ruộng. Cũng có thể cho rằng xây mộ và sandam ở một góc ruộng là để cho người thân chăm sóc thuận tiện hơn. Tuy nhiên cho dù ở gần nhà dân nhưng đá trên sandam là vật cấm kị mà không ai có thể tùy tiện động đến. Nếu không có lý do thích đáng hoặc không được phép thì cũng không được phép vượt qua sandam. Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ. Người ta tin rằng khi những người lang thang đi đường dài hay bị lạc đường, nếu vào bên trong sandam ngủ thì sẽ được linh hồn bên trong ngôi mộ che chở.
산담에는 일반 돌담과는 달리 돌을 다루는 제주 사람들의 기술을 가늠할 수 있는 품격이 다른 조형적 미학이 배어 있다. 그 조형성을 간단히 정의하면 ‘한국적인 선의 미학’이라고 말할 수 있을 것이다. 가령 한국의 기와집은 처마의 선이 좌우로 갈수록 부드럽게 하늘을 향해 들려 있어 마치 가볍게 날아오를 것 같은 리듬감을 느낄 수 있다. 산담의 선도 이와 유사한 아름다움을 보인다. 높이가 낮은 뒤쪽에서부터 천천히 위를 향해 들리듯 구부러져 흘러서 앞쪽 좌측 끝에 오면 담장의 각은 하늘을 향해 살아나 유연한 선을 그리며 올라간다. 이 선이 중앙으로 이동할수록 서서히 잠기듯 낮아지다가 반대편 우측 끝으로 갈수록 다시 살아나 좌측 끝과 대칭을 이룬 뒤 멈춰 선다. 더 나아갈 수 없이 살짝 멈춰 버린 산담의 선은 바라볼수록 평온하다.
Không giống với các loại tường đá thông thường khác, sandam toát lên tính chất và vẻ đẹp tạo hình riêng biệt phản ánh kỹ thuật xử lý đá của người Jeju. Vẻ đẹp tạo hình đó có thể được định nghĩa đơn giản là “vẻ đẹp của đường nét đậm chất Hàn Quốc”. Ví dụ, đường cong của mái hiên nhà ngói ở Hàn Quốc càng đi về hai bên càng hướng lên trời một cách mềm mại, tạo cảm giác như đang lấy đà nhẹ nhàng bay lên. Đường cong của sandam cũng mang nét đẹp độc đáo này. Sandam có kết cấu mặt trong thấp và uốn dần lên, góc bên trái mặt trước của tường rào hướng lên trời tạo nên đường cong uyển chuyển. Càng hướng về giữa thì sandam càng thấp xuống và lại uốn dần lên khi đi về góc phải theo hình thức đối xứng. Đến đây, đường cong như bị ngưng lại, không thể vươn lên được nữa, ngắm những đường cong này thì lòng người càng trở nên thanh thản.
영혼의 심부름꾼 동자석 - Tượng đồng tử, người hầu của linh hồn
산담 안에 세우는 동자석은 이름 그대로 어린 남자, 또는 여자아이의 모습을 하고 있다. 동자석은 여러 기능으로 죽은 이의 영혼을 위해 예를 갖춘다. 그중에는 숭배적 기능, 봉양적 기능, 수호적 기능, 장식적 기능, 주술적 기능, 유희적 기능이 있다. 제주의 동자석은 내륙으로부터 온 여러 성씨의 입도 시조나 부임하는 목사, 제주 출신의 양반 토호, 유배객들에 의해 전파되었다. 하지만 불교적 색채가 채 가시지 않은 채 약간의 지역적 특징만 더해진 내륙의 대다수 동자석들과는 사뭇 다르다. 유교 문화의 중심권인 한양 지역에서 잉태된 묘비석인 동자석이 멀리 남쪽 끝 변방인 제주까지 흘러오는 동안 각 지역의 독특한 풍습과 여러 신앙이 결합되고, 여기에 제주의 풍토와 사상이 더해지면서 매우 독특한 동자석으로 재탄생했다. 다시 말해 제주의 동자석은 불교, 무교, 도교 및 토속 민간신앙의 다양한 요소가 함께 어우러져 반영된 점이 특징이다.
Giống như tên gọi, tượng đồng tử đặt bên trong sandam là các tượng có hình dáng bé trai và bé gái. Tượng đồng tử có nhiều chức năng. Trong đó có thể kể đến chức năng sùng bái, chức năng phụng dưỡng, chức năng bảo vệ, chức năng trang trí, chức năng bùa chú, chức năng giải trí. Tượng đồng tử ở Jeju được mang từ đất liền ra bởi những người thuộc nhiều dòng họ khác nhau đến đảo, hoặc những quan địa phương đến đây nhậm chức, các hào trưởng quý tộc xuất thân ở Jeju, và cả những người bị lưu đày. Tuy nhiên, tượng đồng tử trên đảo khác hẳn với các tượng đồng tử trong đất liền vốn không chứa đựng nhiều màu sắc Phật giáo và nổi bật đặc trưng địa phương. Tượng đồng tử được dựng như bia mộ bắt nguồn từ trung tâm văn hóa Nho giáo Hanyang (Seoul ngày nay), trong quá trình lưu truyền đến vùng biên ải Jeju ở phía Nam xa xôi đã kết hợp phong tục tập quán độc đáo và nhiều tín ngưỡng của từng địa phương, khi đến Jeju thì thêm vào đặc tính phong thổ và tư tưởng của vùng đất này để trở nên vô cùng đặc biệt. Nói cách khác, đặc trưng của tượng đồng tử Jeju phản ánh tất cả các yếu tố đa dạng của Phật giáo, Shaman giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian địa phương.
제주의 동자석은 매우 친근한 정감을 준다. 특히 18세기 조선 영·정조대에 만들어진 동자석들은 눈이 크고 선이 부드러우며 보다 정교한 특징을 지녔다. 이는 육지 왕래의 영향이라고 볼 수 있다. 제주 사람들은 국상(國喪) 때마다 능역(陵役)을 자원하여 육지에 다녀왔다. 인조 재위 때인 1629년에 내려진 출륙금지령으로 인해 육지 출입이 쉽지 않았던 탓에 능역 자원 봉사는 제주 사람들이 육지로 나갈 수 있는 좋은 기회였다. 그때 그들이 왕릉 조성 과정에서 보고 기억한 석상을 재현한 것이 지금의 제주 동자상이다. 문인석을 모방해 만든 것인데, 기술이 부족한 아마추어 장인들의 손에서 전혀 다른 형태의 석상으로 변모한 것이다. 그 결과 제주 동자석은 육지에서는 보기 드문 현무암을 사용해서 매우 다른 모습으로 만들어졌으며, 오늘날에는 고유의 단순미에서 우러나는 건강한 원시성으로 인해 제주의 매력적인 얼굴로 널리 사랑받고 있다.
Tượng đồng tử Jeju mang lại cảm giác rất gần gũi. Đặc biệt, những tượng đồng tử được tạc vào thế kỷ 18, thời vua Yeongjo và vua Jeongjo có đặc trưng mắt to, đường nét mềm mại, điêu khắc tinh xảo. Có thể thấy đặc điểm này do ảnh hưởng từ quá trình đi lại với đất liền. Mỗi khi có quốc tang người dân Jeju thường hay xin đi phu vào đất liền để xây lăng mộ.
Năm 1692, dưới sự trị vì của vua Injo, nhà vua ban hành luật cấm rời khỏi đất liền nên việc ra vào đất liền rất khó khăn, do đó đi phu xây lăng mộ chính là cơ hội tốt để người dân Jeju có thể vào đất liền. Họ ghi nhớ hình ảnh của các tượng đá trong quá trình xây dựng lăng mộ và tái hiện thành tượng đồng tử trên đảo Jeju như bây giờ. Thật ra họ tạc theo tượng quan văn trước mộ vua, nhưng dưới bàn tay của những người thợ không chuyên, tượng đồng tử thay đổi hình dáng hoàn toàn khác với tượng họ đã nhìn thấy. Kết quả là tượng đồng tử ra đời với hình dáng rất dộc đáo, được làm từ đá bazan hiếm khi được nhìn thấy trong đất liền. Ngày nay, tượng đồng tử trở thành hình tượng thu hút của đảo Jeju, được nhiều người yêu mến bởi tính chất nguyên thủy khỏe khoắn, toát lên vẻ đẹp mộc mạc riêng biệt.
일상의 생활 도구로 쓰였던 제주 돌 - Đá Jeju dùng làm đồ gia dụng
화산섬 제주도는 현무암이 발달해 있어서 예로부터 주로 돌로 된 생활 도구들을 사용했다. 돌이 흔하기도 하거니와 비가 많이 오고 습도가 높아 나무 도구가 빨리 썩기 때문이다. 돌로 만든 제주의 전통 생활 도구 중에 가장 대표적인 것이 물팡, 물방애, 돗통시이다. 그밖에 맷돌, 화로, 정주석, 도고리도 있다. 요즘은 대부분 사용하지 않지만, 제주 사람들에게는 각별한 추억이 어려 있는 물건들이다.
Đảo núi lửa Jeju có rất nhiều đá bazan nên từ xưa người dân đã sử dụng các vật dụng sinh hoạt bằng đá. Lý do chính là đá nhiều, nhưng cũng bởi mưa nhiều và độ ẩm cao nên những vật dụng làm bằng gỗ rất nhanh bị hỏng. Tiêu biểu trong số các vật dụng sinh hoạt truyền thống được làm bằng đá trên đảo Jeju có thể kể đến mulpang (kệ đặt vại nước), dolbangae (cối giã) và dottongsi (chuồng lợn). Ngoài ra còn có maetdol (cối xay), hwaro (lò than), jeongjuseok (trụ cổng) và dogori (bát). Ngày nay, hầu hết các vật dụng này không còn được sử dụng nữa nhưng chúng chứa đựng nhiều ký ức đặc biệt đối với người dân Jeju.
물팡은 물을 긷는 허벅을 올려 놓는 받침대로 주로 부엌 문 밖에 설치했다. Kệ đá để đặt các vại mà phụ nữ Jeju mang đi lấy nước. Kệ thường được đặt bên ngoài cửa nhà bếp.
물팡 - Kệ đặt vại nước
물을 긷는 허벅을 올려놓는 물팡은 현무암 돌로 만든 사각형의 받침대이다. 기능성과 동선을 고려해 주로 부엌 문 밖에 설치하는데, 제주 여성들은 수시로 허벅을 등에 지고 마을의 공동 샘에서 물을 길어다 이곳에 내려놓았다. 샘은 집에서 멀리 떨어져 있었으며, 마을마다 집마다 물을 길어 오는 거리가 제각기 달랐다.
Kệ dùng để chứa vại múc nước là loại kệ đỡ hình tứ giác được làm bằng đá bazan. Do chức năng của kệ và hướng di chuyển của người sử dụng nên kệ thường được đặt ở bên ngoài cửa bếp, những người phụ nữ Jeju thường mang vại trên lưng, đi lấy nước ở con suối chung của làng rồi về đặt vại nước ở trên kệ này. Suối thường cách xa nhà, mỗi làng sẽ tạo ra đường dẫn nước khác nhau về từng nhà.
해안가 마을은 일반적으로 마을 중심지에서 약 1km 정도 떨어진 곳에서 샘이 솟아났다. 이 물을 ‘산물’이라고 불렀는데, 조수간만의 차에 따라서 양이 달라지기 때문에 물때를 맞춰서 물을 길어 왔다. 산간 마을에서도 빗물이 고인 봉천수를 허벅으로 날라다 먹거나 비가 올 때 나무에서 흐르는 빗물을 받아 생활 용수로 삼았다. 산물이 부족한 곳에서는 초가 지붕에 내리는 빗물을 받아 저장해 두었다가 먹었다.
Những ngôi làng ven biển thường có suối cách xa trung tâm làng khoảng 1 km. Nước này được gọi là “sanmul”, do lượng nước thay đổi theo thủy triều nên người dân thường canh lúc thủy triều lên để đi hứng nước về. Ở những ngôi làng vùng núi thì người dân dùng vại chứa nước mưa để uống hoặc hứng nước mưa rơi xuống từ cây làm nước sinh hoạt. Ở những nơi thiếu sanmul, người dân thường hứng nước mưa từ trên mái ngói và trữ lại để uống.
물은 주로 부인들이나 여자아이들이 길어 왔다. 이 물을 식수로 사용하며, 소와 말, 돼지에게도 먹였다. 제주 여성들은 어렸을 때부터 허벅 지는 일이 일상이 되었다. 그들의 하루는 허벅을 지고 물을 길어다가 물항아리를 채우는 일부터 시작되었다. 허벅은 물을 운반하기 좋게 만든 둥글고 검붉은 옹기 그릇이다. 먼 거리에서 나를 때에도 물을 흘리지 않게 목이 좁고 배가 불룩하게 만들었으며, 나이에 맞게 쓸 수 있도록 크기도 다양했다.
Ở Jeju, người đi lấy nước chủ yếu là phụ nữ và các bé gái. Nước lấy được thường dùng làm nước uống và cũng cho bò ngựa uống. Phụ nữ Jeju quen với việc mang vại lấy nước từ nhỏ. Một ngày của họ bắt đầu bằng việc mang vại đi và lấy nước về đổ đầy chum to. Vại lấy nước làm bằng đất nung, màu đỏ sẫm, thân tròn để dễ vận chuyển. Vại có thiết kế cổ hẹp và thân phình to để cho nước không bị đổ ra khi vác đi đường xa, độ lớn của vại cũng đa dạng sao cho phù hợp với độ tuổi của người mang vại.
돌방애는 제사에 올릴 떡을 만들 때 주로 사용되었으며, 옷감에 감물을 들이는 데도 긴요한 도구였다. Cối đá để giã tách vỏ ngũ cốc, sau đó xay thành bột làm bánh tteok cúng trong ngày giỗ. Cối còn dùng để giã quả hồng xanh lấy nước nhuộm vải.
돌방애 - Cối giã bằng đá
가족의 생일보다 조상을 모시는 제사를 중요하게 여겼던 제주 사람들은 곡물의 껍질을 벗기고 가루로 내어 떡을 만들기 위해 집집마다 방아가 필요했다. 이 돌로 만든 방아가 제주 말로‘돌방애’이다. 방애는 2명, 또는 3명의 여성이 번갈아 가며 찧었다.
Người dân Jeju xem trọng ngày giỗ của tổ tiên hơn sinh nhật, vì thế nhà nào cũng cần chiếc cối giã ngũ cốc để tách vỏ, sau đó xay bột làm bánh tteok cúng giỗ. Chiếc cối đá này trong tiếng Jeju là “dolbangae”. Thường thì hai hoặc ba người phụ nữ sẽ lần lượt thay phiên nhau giã ngũ cốc.
방애는 노동복을 만들 때도 긴요하다. 제주도 민가에서는 여름 장마철이 지나면 풋감을 따서 옷감에 감물을 들였다. 푸른 풋감을 따서 방애에 넣고 빻으면 반달 같은 감씨가 나오고(아이들은 재미로 이 떫은 감에서 나오는 감씨를 먹곤 했다), 풋감이 적당히 뽀개지면 삼베나 광목 천을 방애에 넣고 손으로 골고루 문질러 옷감에 감즙만 묻히고는 돌담에 널어 햇볕을 맞게 한다. 감옷이 마르면 다시 물을 적셔 널기를 반복하여 열흘 이상 지나게 되면 빳빳하고 질긴 천이 되는데 이를 ‘갈천’이라고 하고, 그 천으로 만든 옷을 ‘갈옷’이라고 한다. 이 갈천으로 각종 노동복을 만들어 입었는데 갈옷은 땀이 잘 차지 않고 시원하며 빨래를 할수록 점점 질기고 색이 짙어진다.
Cối giã bằng đá cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình may quần áo lao động. Vào mùa hè, khi mùa mưa dầm đi qua, dân đảo sẽ hái quả hồng xanh để nhuộm vải. Những quả hồng xanh được giã trong cối đá sẽ văng ra hạt hình bán nguyệt (bọn trẻ cũng hay ăn hạt từ những quả hồng chát này), khi hồng được giã nát vừa phải thì người ta cho vải gai hoặc vải bông vào trong cối rồi dùng tay nhào đều cho nước ép của quả hồng thấm vào vải, sau đó mang ra vắt trên tường rào đá để phơi nắng. Vải phơi khô sẽ trải qua quá trình thấm nước, rồi phơi khô, cứ thế lặp đi lặp lại suốt mười ngày để trở nên cứng và dai hơn. Loại vải này có tên gọi là “galcheon” (vải nhuộm từ quả hồng), và quần áo may từ loại vải này được gọi là “garot”. Người dân Jeju dùng galcheon để may trang phục lao động, garot có đặc tính thấm hút mồ hôi tốt, mát mẻ và càng giặt thì chất vải càng dai, màu sắc càng đậm.
도정을 위해서는 실제로 돌방애보다 ‘남방애’라고 불리는 나무 방애가 선호되기도 했다. 상대적으로 가볍고 관리도 편하기 때문이다. 돌방애를 사용하지 않을 때는 마당 구석에 세워 두고, 남방애는 비를 피해 외양간 소 뒤편에 세워서 보관했다.
Tuy nhiên trên thực tế, khi cần xay thóc người ta thường thích dùng cối xay bằng gỗ, được gọi là “nambangae”, hơn là dùng cối giã bằng đá, vì cối xay bằng gỗ nhẹ và dễ bảo quản hơn. Lúc không dùng đến, dolbangae được đặt trong góc sân, còn nambangae được bảo quản phía sau chuồng bò để tránh mưa.
돗통시 - Chuồng lợn
제주에서 돼지를 키우기 위해 돌담으로 두른 집을 ‘돗통시’라고 한다. 제주에서는 돼지를 ‘도새기’라고 부르는데, 단백질 공급을 위해 매우 중요한 가축이었다. 그러나 곡물이 귀해서 주로 인분(人糞)을 먹여 키웠다.
Ở Jeju, loại chuồng được quây quanh bằng tường đá để nuôi lợn được gọi là “dottongsi”. Lợn nuôi trên đảo Jeju là lợn “dosegi”, là gia súc đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp đạm cho dân đảo. Tuy nhiên, do ngũ cốc trên đảo quý hiếm nên lợn được nuôi bằng cách cho ăn chất thải của người.
돼지의 축사인 돗통시는 화장실 역할도 했지만 농작물을 키우는 데 필요한 거름을 만드는 장소이기도 했다. 바닥에 늘 보리 짚을 깔아 두어 인분을 먹은 돼지가 그 위에 배설을 하고 밟으면 자연스럽게 거름이 만들어지게 한 것이다. 겨울철이 되면 그 거름을 담장 밖 골목길에 쌓아 두고 두어 달 발효시킨 후 이른 봄 보리씨와 함께 섞어 밭에 뿌렸다.
Người nuôi lợn xem chuồng lợn dottongsi là nhà vệ sinh của gia đình, đồng thời cũng là nơi ủ phân bón dùng trong trồng trọt. Chủ nhà trải rơm khắp nền chuồng lợn và đi vệ sinh lên đó, lợn ăn phân người rồi đi vệ sinh trên lớp rơm đó, lợn sẽ giẫm lên phân và rơm trong quá trình di chuyển, từ đó tạo nên lớp phân bón tự nhiên. Vào mùa đông, chủ nhà sẽ mang lớp phân rơm này để ở lối đi ngoài tường đá nhằm làm cho phân lên men trong khoảng hai tháng, sau đó họ trộn phân này với hạt lúa giống để rải lên ruộng vào đầu mùa xuân.
돼지를 집 안에서 키운 이유는 또 있었다. 제주에서는 아들이나 딸이 결혼할 나이가 되면 어린 돼지를 두 마리 사다가 키웠다. 한 해 남짓 키워 다 자라면 결혼식 날에 맞춰 돼지를 잡아 고깃반을 만들어 하객에게 대접했다.
고깃반은 돼지고기 석 점, 순대 한 점, 두부 한 개를 올려 놓은 제주 고유의 음식으로 지금도 제주에서는 “돼지고기 석 점 언제 먹을 거니?”라고 물으면 “결혼 언제 할 거냐?”란 뜻이다.
Việc nuôi lợn trong nhà ở đảo Jeju còn một lý do khác nữa. Khi con cái đến tuổi lập gia đình, bố mẹ sẽ mua một đôi lợn con về nuôi. Lợn được nuôi lớn trong hơn một năm cho đến ngày cưới, khi lợn lớn, họ sẽ xẻ thịt để đãi khách. Bàn tiệc ở Jeju rất đặc biệt gọi là “gogiban”, thường gồm có ba miếng thịt lợn, một đĩa dồi trường, một miếng đậu hủ; ngày nay khi người Jeju hỏi nhau “Khi nào cho tôi ăn ba miếng thịt lợn thế?” thì có nghĩa là họ muốn hỏi “Khi nào kết hôn?”.
인분을 먹고 자라는 ‘똥돼지’는 오래 전에 사라졌지만, 천연기념물로 지정된 제주 흑돼지는 제주가 자랑하는 특산물이다. Loài “lợn ăn phân” (ttong doeji) từ lâu không còn nữa, tuy nhiên loài lợn đen, đặc sản đáng tự hào của Jeju đã được công nhận là Di sản Thiên nhiên cấp Quốc gia số 550 vào năm 2015.
김유정 (Kim Yu-jeong 金唯正) 제주문화연구소 소장
Kim Yu-jeong, Giám đốc Viện nghiên cứu văn hóa Jeju
Nguyễn Xuân Thùy Linh Dịch.
0 Comment: