붐비는 네거리 신호등 앞. 마침내 파란불이 켜지면 자동차들이 속력을 내기 전 수십 대의 오토바이들이 미친 듯 질주를 시작한다. 대도시에서 흔히 마주치는 장면이다. 배달업에 종사하고 있는 사람들은 전국적으로 약 30만 명 가까이 되는 것으로 추산된다. 고객이 누리는 편리함의 이면에 이들의 열악한 노동 조건은 우리 사회가 해결해야 하는 문제로 남아 있다.
Tại cột đèn giao thông nơi ngã tư đông đúc khi đèn tín hiệu vừa chớm chuyển sang màu xanh, hàng chục xe máy phóng vụt lên, trước cả khi những chiếc ô tô kịp nhấn ga. Đây vốn là hình ảnh dễ dàng bắt gặp tại các thành phố lớn. Theo ước tính cả nước có khoảng gần 300 nghìn nhân viên giao hàng. Nghề giao hàng đem đến sự tiện lợi cho khách hàng thế nhưng điều kiện làm việc quá đỗi khắc nghiệt của nó vẫn đang còn là vấn đề mà cả xã hội cần phải giải quyết.
나는 소설가로 등단하기 전, 서울의 오피스타운에서 한식을 배달했다. 유흥가 중식당이나 주택가 피자 가게에서도 일해 봤다. 심지어 런던에 잠시 머물 때도 일식을 배달했으니 이래 봬도 ‘유학파’ 배달원이다. 그러나 배달의 본고장 한국에서 해외 경험은 아무짝에도 쓸모없다. 영국에서는 배달원이 엄연한 직업이지만, 한국에선 임시직에 불과하기 때문이다. 지금부터는 내가 배달 일을 하던 과거 그 어느 날에 대한 이야기다.
Trước khi gia nhập làng văn với tư cách một tiểu thuyết gia tôi đã từng là nhân viên giao đồ ăn cho một quán chuyên món Hàn ở Seoul. Cũng có thời tôi làm ở nhà hàng pizza và nhà hàng Trung Quốc tại một con phố ăn uống. Thậm chí tôi cũng từng giao hàng cho quán ăn Nhật khi tôi lưu trú ở London một thời gian ngắn nên tôi là anh giao hàng “đã từng đi du học”. Nhưng những kinh nghiệm nơi xứ người chả có ích gì tại Hàn Quốc, nơi thị trường giao hàng diễn ra sôi nổi. Nếu như ở Anh nhân viên giao hàng được xem là một công việc nghiêm túc thì ở Hàn Quốc nó chỉ được xem là một công việc mang tính tạm thời. Sau đây là câu chuyện về một ngày nào đó trước đây khi tôi đang còn là một nhân viên giao hàng.
배달 라이더들이 붐비는 서울 도심 한복판 차량들 사이를 달리고 있다. 제한된 시간 내에 최대한 많은 주문량을 소화해 내야 하는 라이더들은 도심 지리를 꿰뚫고 있어야 함은 물론 머릿속에 가장 효율적인 동선을 그릴 수 있어야 한다. Nhân viên giao hàng phóng trên đường vào giờ cao điểm để có thể giao được nhiều đơn hàng nhất trong một khoảng thời gian giới hạn. Họ phải thuộc nằm lòng các con phố và hoạch định trong đầu đường đi ngắn nhất. ⓒ 뉴스뱅크,NewsBank
딜레마 - Tiến thoái lưỡng nan
“옆집 장발 친구 어제 사고 나서 입원했단다. 들었어?” “Cái thằng tóc bồng bềnh ở nhà hàng bên cạnh hôm qua mới bị tai nạn, đang nhập viện đó. Cậu biết chưa?”
출근해서 본격적으로 일을 준비하고 있을 때 사장이 안타까운 표정으로 말했다. 이웃 가게 장발 친구는 훌륭한 기량을 가진 ‘배달 선수’였다. 길에서 마주치면 마치 잘나가는 레이서처럼 보일 정도였다. 최근에 연애 실패로 상심했다는 얘기를 들었는데, 사고로 입원까지 했다니…. 역시 배달업은 외과 의사나 애널리스트, 항공기 기장만큼이나 정신을 바짝 차려야 하는 일이다. 잠시 한눈파는 순간 길바닥에 누워야 한다.
Bằng giọng điệu đầy thương xót, ông chủ nói khi tôi vừa đến chỗ làm và đang chuẩn bị cho công việc giao hàng của mình. Cái anh tóc bồng bềnh làm việc ở cửa hàng bên cạnh vốn là “một tay giao hàng cừ khôi” với khả năng xuất thần. Đến mức nếu nhìn anh đi giao hàng trên đường thì trông giống như một tay đua tầm cỡ. Gần đây nghe nói anh đang buồn vì chuyện yêu đương không thành, giờ lại gặp tai nạn rồi phải nhập viện… Quả thật giao hàng là một công việc đòi hỏi sự tỉnh táo cao độ chẳng khác các bác sĩ ngoại khoa, nhà phân tích hay phi công. Chỉ cần lơ là trong phút chốc đã té lăn xuống đường.
배달 일을 하며 폭염의 여름에도 몸과 마음이 서늘해지는 경험을 할 때가 있는데, 길가에 생뚱맞게 세워진 모터바이크들을 볼 때다. 그건 그냥 주차해 놓은 것이 아니다. 자세히 보면 스포크 휠이 휘어졌거나 옆면이 처참하게 갈려 있다. 사고가 나서 라이더를 구급차가 실어간 후 도로 통행을 재개하기 위해 바이크를 옆으로 치워 놓은 장면인 것이다. 배달원의 사고는 너무 쉽게 목격된다. 길에서 늘 마주치던 사람이 안 보이면 다치거나 죽은 거다.
Ai làm công việc giao hàng thì đã từng thấy việc cả phần hồn và phần xác đều ớn lạnh dù đang là một ngày hè oi bức. Đó là khi nhìn thấy những chiếc xe máy ngổn ngang bên đường. Đây không phải là những chiếc xe được ai đó đỗ tạm. Nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy mâm xe bị cong vòng hoặc mặt bên bị chà xát. Đó chính là những chiếc xe được dẹp tạm qua một bên để nối lại giao thông sau khi xảy ra tai nạn và tài xế đã được đưa lên xe cứu thương. Tai nạn xảy ra với những người giao hàng là một việc dễ dàng bắt gặp. Nếu không còn thấy một người vốn hay gặp trên đường thì hoặc người ấy bị thương hoặc người ấy đã chết.
“그러니까 너도 좀 요령껏 빨리 가야지, 미친 듯이 쏘고 다닐래?”
“Cậu phải đi cho đàng hoàng vào, cứ kiểu phóng đi như điên vậy hả?”
가게 사장님이 내 라이딩 스타일을 걱정했다. Ông chủ cửa hàng lo lắng kiểu lái xe của tôi.
“괜찮아요. 전 잃을 게 아무것도 없어요.” “Có sao đâu mà. Cháu còn gì để mất đâu.”
“시끄러워 인마. 내가 널 못 잃어. 안전하게 좀 다니라고.” “Ồn ào, cái thằng này. Chú không thể mất cậu được. Đi đứng cho an toàn vào.”
그의 말이 잠시 따뜻하게 느껴졌지만, 냉철한 표현이기도 했다. Câu nói thoáng có sự ấm áp và là một lời khuyên rất thực tế.
오토바이 배달은 면허증이 있고 겁만 없으면 누구나 할 수 있는 일이다. 주문을 얼마나 소화하느냐에 따라 꽤 짭짤한 수입을 올릴 수 있고, 일반 회사처럼 경직된 조직 문화나 꼰대 상사 때문에 스트레스에 시달릴 필요가 없다. 그럼에도 배달원을 구하기는 쉽지 않다. 위험을 무릅써야 하기 때문이다. 도로 위엔 바보들이 너무 많고, 운전면허를 너무 쉽게 발급하는 한국에선 어떤 초보 운전자가 나를 들이받을지 모를 위험에 항상 대비해야 한다.
Chỉ cần có bằng lái và không sợ thì ai cũng có thể làm công việc giao hàng bằng xe máy. Công việc này có thể kiếm được mức thu nhập cao tùy vào số đơn hàng giao được và cũng không cần phải chịu sự căng thẳng do cấp trên hay môi trường làm việc cứng nhắc như trong các công ty. Nhưng không dễ để tuyển được nhân viên giao hàng. Vì công việc này có tính nguy hiểm cao. Hàn Quốc cấp bằng lái xe dễ dàng và trên đường luôn đầy rẫy những kẻ ngông, chúng ta phải luôn trong tư thế đề phòng mối nguy hiểm mình sẽ bị va phải bởi một người mới tập tễnh biết lái nào đó.
라이더들은 빠른 배달과 더 나은 수입을 위해 위험을 감수하며 가속 그립을 끝까지 당겨야 한다. 오토바이는 고라니나 고양이가 로드킬을 당하는 것과 같은 이유로 사고가 난다. 가엾게도 많은 라이더들은 오토바이를 탄 자신이 차보다 빠르다고 믿는다. 덩치가 작아 날렵하게 느껴질 뿐 바이크는 차보다 결코 빠르지 않다. 출력도 높지 않다. 그러나 안전하고 느긋한 배달은 곧 영업 손실로 이어지기 때문에 속도를 줄일 수는 없다. 이 위험한 딜레마에서 벗어날 수 있는 방법은 오직 일확천금뿐이다. 나는 거의 모든 배달원들의 옷 주머니에 로또 복권이 들어 있다는 데 돈을 걸 수 있다.
Những người giao hàng phải luôn tăng tốc độ xe bất chấp nguy hiểm để giao hàng nhanh và có mức thu nhập cao. Lý do xảy ra tai nạn xe máy cũng giống như lý do những con hươu, con mèo bị va chết trên đường. Đáng buồn là các tay lái đều tin rằng tốc độ của chiếc xe máy họ đi nhanh hơn cả tốc độ của ô tô. Vì xe máy có kích thước nhỏ nên tốc độ của nó chỉ là sự cảm nhận chứ tuyệt nhiên xe máy không bao giờ có thể nhanh hơn ô tô được. Và phân khối xe máy cũng không lớn. Thế nhưng giao hàng thong thả và đầy sự an toàn sẽ dẫn đến thiệt hại cho việc kinh doanh nên họ không thể giảm tốc độ. Cách có thể giúp họ thoát khỏi sự tiến thoái lưỡng nan đầy nguy hiểm này chính là trong phút chốc có thật nhiều tiền. Tôi dám đặt cược là hầu hết các anh giao hàng đều có một tờ vé số trong túi áo.
서울 강남 지역을 기반으로 하는 배달 플랫폼 띵동(Ddingdong)의 직원이 한 분식집의 음식을 스쿠터에 싣고 있다. 배달 전담 인력을 고용할 여력이 없는 소규모 점포들은 전문 업체에 배달을 의뢰하여 경비를 줄이고 있다. Một nhân viên giao hàng Ddingdong, một dịch vụ ở Quận Gangnam thuộc khu vực Seoul đang đặt đơn hàng của tiệm thức ăn nhanh lên xe. Các tiệm nhỏ khi không đủ tiền thuê nhân viên giao hàng riêng sẽ sử dụng các công ty dịch vụ giao hàng. ⓒ 뉴스뱅크
노하우 - Năng lực
오전 11시. 주문 전화가 미친 듯이 울리기 시작한다. 점심 무렵 2시간 동안 라이더 한 명이 집중적으로 배달해야 하는 양은 30건 정도다. 한 군데 다녀오는 시간이 5분이라고 치면 1시간에 12건, 2시간이면 24건밖에 해내지 못한다. 5분 이상 걸리는 곳들도 많다. 그래서 여러 건의 배달 음식을 함께 들고 나가야 한다. 그렇다 보니 배달원의 능력은 공간 감각이 좌우한다. 머릿속으로 주문 들어온 곳들의 주소를 연결해 최단 시간에 최대한 많이 배달할 수 있는 동선을 그려야 한다. 머리란 그저 헬멧을 씌우기 위해 있는 게 아니다. 오토바이에 실을 수 있는 물건의 양은 정해져 있고, 오가는 시간도 한정적이다. 군더더기 없이 배달 경로를 예쁘게 그리는 자가 진정한 프로다.
11 giờ trưa là khoảng thời gian điện thoại đặt hàng bắt đầu đổ chuông không ngừng nghỉ. Đến tận giờ ăn trưa, tức trong hai giờ đồng hồ, mỗi người phải giao đến 30 đơn hàng. Nếu ước lượng thời gian cả đi và về để giao một đơn hàng là 5 phút thì một giờ đồng hồ giao được 12 đơn, hai giờ đồng hồ chỉ giao được 24 đơn. Mà lại có nhiều nơi phải mất hơn 5 phút. Vì vậy mỗi lần đi giao họ mang nhiều đơn một lúc. Chính vì lẽ đó năng lực của một người giao hàng nằm ở chỗ ước lượng được không gian. Họ phải liên kết những địa chỉ có đơn hàng cần giao và lên lộ trình di chuyển để có thể giao được nhiều đơn hàng mà tốn ít thời gian nhất. Với họ đầu không chỉ dùng để đội mũ bảo hiểm mà còn để ước chừng lượng đồ có thể chất lên xe và cả việc tính toán thời gian di chuyển. Phải vẽ ra trong đầu một lộ trình vừa vặn thì đó mới là người chuyên nghiệp thực thụ.
배달 구역의 교통 상황을 파악하는 눈치도 빨라야 한다. 가게 앞 사거리 신호등이 지금 무슨 색으로 바뀌는지 꿰고 있어야 한다. 배달 장소에 도착하기 전 계단과 엘리베이터 중 무엇이 더 빠를지 순간적인 판단력도 필요하다. 유능한 배달원은 육감을 단련해서 다음 골목에서 뭐가 튀어나올지 예측해야 하고, 반대편에서 오는 차가 갑자기 유턴하려고 맘먹는 것을 눈치채야 한다. ‘배달 선수’의 보람은 남이 못 하는 것을 멋지게 해낼 때 비로소 얻을 수 있다.
Họ phải nhanh nhạy nắm bắt tình hình giao thông ở khu vực đến giao hàng. Phải biết được đèn giao thông ở ngã tư phía trước cửa hàng đang chuyển sang màu gì. Trước khi tới địa điểm giao hàng họ cần phải có khả năng nhận định nhanh chóng về việc giữa cầu thang bộ và thang máy thì cái nào sẽ nhanh hơn. Một người giao hàng có năng lực phải tự rèn luyện giác quan thứ sáu để dự đoán ngay con hẻm kế tiếp sẽ có cái gì nhảy bổ ra và chiếc xe đang đi tới từ phía đối diện liệu có quay đầu. Giá trị của “cao thủ giao hàng” nằm ở việc bản thân có thể giải quyết những việc mà người khác không làm được.
목적지로 출발한다. 하필 내 앞에서 신호를 위반하는 차가 없기를, 골목에서 사슴처럼 튀어나오는 자전거가 없기를, 내가 길 가는 애먼 사람을 치지 않기를, 코너에서 바나나 껍질을 밟지 않기를, 도로의 움푹 파인 곳에 걸려 앞구르기 쇼를 하지 않기를 바라고 또 바란다. 어쨌든 살아남아서 살아가야 한다. 그러나 일단 출발하면 오직 한 가지 생각뿐이다. 늦게 도착해서 욕먹는 일은 피하자!
Trên đường đi đến chỗ khách hàng, những người giao hàng hết cầu mong cho phía trước đầu xe của mình không có xe nào vượt đèn đỏ, không có chiếc xe đạp nào lao ra khỏi con hẻm như những chú nai, lại cầu mong mình không tông trúng những người vô tội đang đi trên đường, xe không trượt lên vỏ chuối nơi góc đường và cũng không lao vào ổ gà rồi bay lộn trên không. Dù gì cũng phải sống sót và tiếp tục sống. Thế nhưng một khi lên đường giao hàng thì trong đầu chỉ có một suy nghĩ duy nhất. Đó là không để bị chửi vì giao hàng muộn.
머리란 그저 헬멧을 씌우기 위해 있는 게 아니다. 오토바이에 실을 수 있는 물건의 양은 정해져 있고, 오가는 시간도 한정적이다. 군더더기 없이 배달 경로를 예쁘게 그리는 자가 진정한 프로다. Cái đầu đâu chỉ để dùng vào mỗi việc đội mũ bảo hiểm. Mà còn để ước chừng lượng đồ có thể chất lên xe và cả việc tính toán thời gian di chuyển. Phải vẽ ra trong đầu một lộ trình vừa vặn mới là người thật sự chuyên nghiệp.
치킨 프랜차이즈 업소 배달원이 밤 늦은 시간 모터바이크에 주문 받은 음식을 싣고 건대 앞 먹자골목을 급히 지나가고 있다. Một nhân viên giao hàng của chuỗi nhượng quyền món gà rán đang lướt đi trên con hẻm của một nhà hàng tại khu vực trường Đại học Konkuk phía đông Seoul vào đêm tối muộn. ⓒ Shutterstock; Photo by Kelli Hayden
자괴감 - Hổ thẹn
오늘 첫 배달지는 갈 때마다 기분 나쁜 사무실이다. 늘 반말이고, 자신들이 예상했던 시간보다 조금만 늦어도 욕부터 한다. 배달 같은 험한 일을 하는 사람은 사회적 지위가 낮으니 그렇게 대해도 된다는 저열한 계급 인식을 갖고 있는 듯하다. 그릇을 수거하러 가면 화가 치민다.
Đơn hàng đầu tiên hôm nay tôi phải giao là tại một văn phòng mà mỗi lần đến là thấy bực bội. Ăn nói lúc nào cũng trống không, giao hàng muộn dù một chút thì họ sẽ chửi ngay. Dường như họ luôn mang trong mình suy nghĩ những người lao động chân tay chỉ là bọn có địa vị xã hội thấp nên giao tiếp kiểu đó cũng được. Khi đến lấy lại chén bát, cơn giận trong tôi lại nổi lên.
“그릇에 쓰레기 좀 버리지 마요.” “Mấy anh mấy chị đừng có vứt rác vào trong chén bát chứ.”
아무도 대꾸하지 않는다. 투명 인간 취급이다. 그 사무실에선 음식 값을 제때 받지도 못했다. 월식으로 먹는 장부에 사인받을 때면 무슨 중대한 결제처럼 뜸을 오지게 들이고, 4인분을 시켜 놓고 슬쩍 3인분 값만 사인하기도 한다. 월말에 수금하러 가면 호통까지 친다.
Không một ai đáp lại. Họ coi tôi như người vô hình. Văn phòng này không trả tiền đồ ăn ngay lúc đó. Mỗi lần đến lấy chữ ký vào sổ ghi chép tiền ăn mỗi tháng cứ như là duyệt một cái gì lớn lao lắm. Rồi có khi bốn phần ăn nhưng chỉ ký trả ba phần thôi. Cuối tháng đến lấy tiền còn bị mắng.
“어허, 나중에 준다니까. 우리가 그 같잖은 돈 떼먹겠어? 어?” “Thằng này, đã nói sau này sẽ trả mà. Bọn tao mà ăn chặn mấy đồng bạc đó sao? Hả?”
하지만 그 사무실 사람들은 결국 어느 날 밀린 식대를 갚지 않고 도망갔다. 나와 사장이 분노하며 그 같잖은 놈들을 잡으러 다녔지만 소용없었다. 요즘엔 온라인으로 선결제가 이루어져 그런 불상사를 막을 수 있다. 그런 점에서 시스템의 진화는 반갑다.
Thế nhưng cái mà họ nói sau này đó lại không đến khi mấy con người trong văn phòng bỏ đi và không trả hết tiền ăn đã nợ. Tôi và ông chủ đều phẫn nộ. Chúng tôi đi tìm mấy tên đó nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Hiện nay thanh toán trước bằng ứng dụng trực tuyến nên những rủi ro như thế này có thể tránh khỏi. Ở điểm này thì sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật là điều đáng hân hoan.
다음은 공장이다. 그곳은 바빠서 정신없이 돌아가고 있다. 대체 밥 먹을 시간이나 있을까 하는 생각을 하며 음식을 놓고 나오다 살펴본 직원들의 눈이 하나같이 붉게 충혈돼 있다. 물론 매연과 먼지를 헤치고 달려온 내 눈도 붉다. 누가 더 불쌍한지 비교해 볼 틈도 없이 다음 목적지인 모텔로 가는데, 비가 촤아아 쏟아진다. 날이 궂어 가게에 주문 전화가 더 많이 울리는 환청이 들린다.
Đơn hàng tiếp theo là ở một công xưởng. Đây là nơi mọi thứ đều tất bật. Vừa bày thức ăn lên vừa nghĩ không biết mọi người ở đây có thời gian ăn không nữa. Xong đâu đấy khi bước ra ngoài tôi thấy mắt của công nhân đều bị tụ máu đỏ lên. Dĩ nhiên đôi mắt với đầy khói bụi đường của tôi cũng bị đỏ. Tôi không có thời gian để xem liệu ai đáng thương hơn ai vì phải tất bật chạy ngay đến nhà nghỉ để giao đơn hàng tiếp theo. Lúc này mưa trút xuống. Tôi như đang nghe thấy tiếng chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi trong cửa hàng vào một ngày thời tiết xấu.
비옷을 꺼내 입고 목에 수건을 감아도 파고드는 빗줄기를 완벽하게 막을 수는 없다. 달릴 때 몸에 부닥치는 빗물들은 따갑고, 동시에 서럽다. 젖어서 초췌한 몰골로 물을 머금어 무거워진 발을 끌며 모텔 건물에 들어간다. 문이 열리자 수건으로만 몸을 가린 손님이 음식을 받는다. 그는 옷 입기가 귀찮아 배달 음식을 선택했을 것이다. 그래, 옷 입을 시간에 더 편히 쉬고, 더 많이 사랑하기를 빌어 준다. 더불어 그만 바쁘고, 삶의 질을 좀 높이며 살기를 바라고, 내 삶도 그렇게 되기를 바라며 다음 음식을 실으러 가게로 복귀한다.
Tôi lôi áo mưa ra mặc và dù quấn khăn quanh cổ nhưng không thể cản hết được những làn mưa đang len vào. Trong lúc tôi chạy xe mưa táp vào người đau rát và cùng lúc đó là một nỗi xót xa trào dâng. Với bộ dạng thảm hại ngấm đầy nước mưa, tôi lê đôi chân nặng trĩu đi vào nhà nghỉ. Cửa vừa mở, một người đàn ông chỉ quấn mỗi chiếc khăn bước ra nhận thức ăn. Chắc anh ta thấy phiền ngay cả với việc mặc áo nên mới gọi đồ ăn giao tới. Tôi mong anh ta dành thời gian mặc quần áo đó để thoải mái nghỉ ngơi thêm và yêu nhiều thêm . Hơn nữa tôi mong anh ta thôi bận rộn và nâng cao chất lượng cuộc sống và rồi tôi cũng mong cho cuộc sống của tôi cũng được như vậy. Tôi quay về cửa hàng để lấy những đơn hàng tiếp theo đi giao.
타협 - Thỏa hiệp
가게에는 배달을 기다리는 음식이 조금씩 식어가고 있었다. 더 식기 전에 잽싸게 싣고 다시 나간다. 사람들은 맛 때문에 배달 음식을 시키지는 않는다. 멋진 레스토랑에서 요리사가 열심히 조리한 직후, 예쁘게 담아낸 따끈한 음식을 친절한 웨이터에게 받아먹는 것보다 배달통 속에서 플라스틱 그릇과 랩에 싸인 채 흔들리며 달려온 음식이 더 맛있을 리 없으니 말이다. 그런데도 주문을 하는 것은 식당에 가서 줄을 서 차례를 기다리는 수고 대신 편리함을 선택하기 때문이다. 물론 입맛이 예민하지 않은 사람이라면 맛의 차이를 하찮게 생각할 수도 있겠다.
Ở cửa hàng, thức ăn đang đợi giao nguội dần. Tôi nhanh chóng xếp lên xe rồi đi giao trước khi chúng nguội thêm. Mọi người không thích thức ăn giao tới là do vị của nó. Thức ăn đựng trong những cái bát nhựa bọc màng thực phẩm rồi để vào trong thùng giao hàng sóng sánh được giao tới không thể nào so với những món ăn nóng hổi được những người bồi bàn thân thiện đem ra ngay sau khi đầu bếp chế biến kỹ lưỡng và bày biện đẹp mắt. Dù vậy mọi người vẫn kêu đồ ăn giao tới nơi vì họ lựa chọn sự tiện lợi thay cho nỗi mệt nhọc phải đến nhà hàng xếp hàng chờ đến lượt. Tất nhiên những người có vị giác không quá nhạy cảm họ cũng có thể không quá coi trọng sự khác biệt về vị đó.
그런데 배달 음식은 미세 플라스틱을 발생시키는 일회용품을 양산하고, 지구의 환경 수준을 나날이 떨어뜨린다. 수많은 의문이 꼬리에 꼬리를 문다. 언제 어디서든 뭐든 배달시켜 먹을 수 있는 문화가 자랑거리일까? 배달 산업이 발달한 나라는 그렇지 않은 나라에 비해 삶의 질이 높은 걸까? 코로나 상황에서 한국의 배달 문화가 제공한 안도감은 외출이 제한된 상태에서 굶어 죽지 않는다는 것 말고 뭐가 또 장점인 걸까? 시간에 쫓기고 사회적 하대에 지쳐 신경이 곤두선 배달원을 만날 확률도 높은데 말이다. 자신이 있는 곳으로 음식이 날라져 온다는 단 하나의 장점이 수많은 문제를 상쇄할 수 있는 것일까? 무엇보다 그저 귀찮지 않으려고 지구 환경을 하찮게 만드는 일을 하는 게 옳을까?
Tuy nhiên việc giao thức ăn dẫn đến sự gia tăng đáng kể đồ dùng một lần, làm số lượng rác thải nhựa nhiều lên khiến môi trường trên trái đất ngày càng ô nhiễm. Vô số câu hỏi cứ nối đuôi nhau kéo đến. Liệu văn hoá có thể đặt hàng bất cứ cái gì, bất cứ đâu, bất cứ khi nào có phải là điều đáng tự hào? Liệu một quốc gia có nền công nghiệp giao hàng phát triển thì chất lượng cuộc sống có cao hơn những quốc gia khác? Sự an toàn mà văn hoá giao hàng ở Hàn Quốc mang lại vào thời điểm dịch Corona liệu có điểm tích cực nào khác ngoài việc giúp người ta không bị chết vì đói khi đang trong thời gian hạn chế ra ngoài? Điều đó cũng có nghĩa là có khả năng cao chúng ta sẽ gặp phải người giao hàng cáu kỉnh vì phải chạy đua với thời gian. Liệu điểm tốt duy nhất là thức ăn được giao đến tận tay mình có thể làm lu mờ nhiều điểm tiêu cực không? Hơn nữa vì tránh sự mệt mỏi mà làm những điều gây hại cho môi trường liệu có phải là đúng đắn?
배달 오토바이는 교통 체증을 피해 골목골목 좁은 데로 들어갈 수 있고, 아무 데나 주차해도 된다. 한국에서 오토바이는 지정 주차 구역 없이 아무 곳에나 세울 수 있다. 심지어 인도나 횡단보도에도 막 세운다. 신호를 위반하고, 역주행하고, 별의별 위반을 서슴없이 한다. 자동차 사이드미러에는 오토바이가 잘 보이지 않기 때문에 시끄러운 배기음으로 존재감을 알리고, 예측 불가능한 주행으로 다른 운전자들을 깜짝깜짝 놀라게도 만든다. 교통 질서를 잘 지키면서 주문 들어온 음식들을 제때 가져다주기는 사실상 불가능하다.
Xe máy giao hàng vì để tránh kẹt xe nên cũng đi qua những con hẻm nhỏ và cũng tùy tiện đỗ ở bất cứ đâu. Hàn Quốc không quy định chỗ đỗ dành riêng cho xe máy nên có thể đỗ tùy ý. Thậm chí người ta còn đỗ bừa trên đường dành cho người đi bộ và ngay tại vạch sang đường. Những người giao hàng cũng không do dự với việc vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, và hàng loạt sai phạm khác. Từ gương chiếu hậu của ô tô không nhìn rõ được xe máy nên tài xế chỉ có thể đoán xe máy đang lưu thông qua tiếng động cơ và nhiều khi họ giật nảy người khi những chiếc xe máy bất ngờ từ đâu nhào đến. Để tuân thủ quy tắc giao thông mà vẫn giao thức ăn đúng giờ là việc bất khả thi đối với nhân viên giao hàng.
하지만 배달원은 그런 생각을 할 틈조차 없다. 누군가가 목을 빼고 허기를 참아가며 나를 기다리고 있음을 본능적으로 감지한다. 집중해서 달려간다. 오늘의 마지막 배달지는 사내 파티를 하는 곳이다. 대량 주문이라 오토바이가 휘청거릴 만큼 잔뜩 음식을 싣고 출발한다. 표정이 밝은 사람들이 나를 격하게 반겨 준다. 그들은 축하 문구가 적힌 플래카드 아래에서 여유롭게 건배를 나누고 있다. 다들 무언가를 함께 이룬 듯 기분이 좋아 보인다. 그런 곳에 음식을 가져다주는 일은 어느 정도 보람을 느끼게 만든다. 배달을 마치고 나올 때 누군가가 정중하게 “너무 많이 주문해서 무거웠죠? 비도 많이 오는데 정말 고맙습니다.”라며 팁을 쥐어 준다. 하루의 피로가 그 팁과 따뜻한 말 몇 마디 덕분에 스르르 풀린다.
Người giao hàng không có thời gian để nghĩ như thế. Với bản năng họ cảm nhận được ai đó đang dài cổ nén cơn đói đợi họ đến. Phải tập trung chạy giao hàng. Đơn hàng cuối cùng trong hôm nay là một buổi tiệc tại công ty. Vì họ đặt đơn hàng lớn nên một hàng dài xe máy chất đầy thức ăn xuất phát giao hàng. Nhiều người với gương mặt rạng rỡ nhiệt tình chào đón tôi. Họ nâng ly chúc tụng trong sự thư thái dưới tấm băng rôn có dòng chữ chúc mừng. Tất cả bọn họ đều đang rất vui như vừa cùng nhau đạt được điều gì đó. Việc giao thức ăn đến một nơi như thế này khiến tôi cảm thấy ý nghĩa. Sau khi giao đồ ăn và bước ra ngoài thì một người tiến lại và nói một cách lịch sự “chúng tôi gọi hơi nhiều nên nặng lắm phải không anh? Trời còn đang mưa to nữa, chúng tôi rất cảm ơn anh” và nhét tiền boa vào tay tôi. Bao mệt nhọc trong ngày tan biến nhờ mấy lời nói ấm áp và số tiền boa đó.
비로소 하루가 끝났다. 긴 하루였다. 무거운 헬멧과 라이딩 자세 때문에 목과 어깨는 육포처럼 뻣뻣하고, 비에 젖은 손발은 불어 터졌고, 계단을 수없이 오르내린 팔다리는 연체동물처럼 흐느적거린다. 이제 마지막 배달만 남았다. 내 몸을 안락한 침대 위로 퇴근시키는 배달. 나는 휘파람을 불며 오토바이 시동을 건다.
Cuối cùng một ngày cũng kết thúc. Một ngày dài. Mũ bảo hiểm và việc chạy xe cả ngày khiến cổ và vai tôi cứng như miếng thịt bò khô. Bàn chân và bàn tay tôi nhăn nheo vì ngấm nước mưa. Chân cẳng uể oải mềm nhũn như những động vật thân mềm vì nhiều lần phải lên xuống cầu thang. Bây giờ chỉ còn một chuyến giao hàng cuối cùng nữa thôi. Là đưa bản thân mình về trên chiếc giường thư thái. Tôi huýt sáo và khởi động xe.
박상(Park Sang 朴祥) 소설가
Park Sang, Nhà văn
Dịch. Bùi Thị Mỹ Linh
0 Comment: